Email Bản in

Cây Sim chữa nhiều bệnh

 

Lương y Huyên Thảo Hữu Loan (1916-2010), tác giả bài thơ nổi tiếng Màu tím hoa sim vừa mới từ trần ngày 18/03 vừa qua. Thực ra, cây Sim đã từ lâu đi vào ca dao với những vần thơ bình dị mà không kém phần tuyệt tác: "Đói lòng ăn nửa quả sim, Uống lưng bát nước đi tìm người thương". Tuy nhiên, ít …
Lương y Huyên Thảo
 
Hữu Loan (1916-2010), tác giả bài thơ nổi tiếng Màu tím hoa sim vừa mới từ trần ngày 18/03 vừa qua. Thực ra, cây Sim đã từ lâu đi vào ca dao với những vần thơ bình dị mà không kém phần tuyệt tác: "Đói lòng ăn nửa quả sim, Uống lưng bát nước đi tìm người thương". Tuy nhiên, ít ai biết cây Sim còn cho ta vị thuốc chữa khá nhiều bệnh chứng. Mời bạn đọc lại bài viết của Lương y Huyên Thảo dưới đây.
 
Cây Sim mọc nhiều ở đồi núi hoặc được trồng làm cảnh. Theo Đông y, tất cả các bộ phận của cây đều có thể dùng làm thuốc. Trong đó, Quả Sim vị ngọt chát, tính bình, có tác dụng dưỡng huyết, chỉ huyết (cầm máu), cố tinh, dùng chữa các chứng huyết hư, thổ huyết, mũi chảy máu, tiểu tiện ra máu, lỵ, di tinh, băng huyết... Lá Sim vị ngọt, tính bình, có tác dụng giảm đau, tán nhiệt độc, cầm máu, hút mủ, sinh cơ, dùng chữa đau đầu, tả lỵ, ngoại thương xuất huyết, ghẻ lở, chân lở loét... Rễ sim vị ngọt, hơi chua, tính bình, có tác dụng trừ phong thấp, cầm máu, giảm đau, dùng chữa viêm gan, đau bụng, băng huyết, phong thấp đau nhức, lở loét, bỏng lửa... Nếu bị đau đầu kinh niên, mỗi ngày nên lấy 30g Lá và Cành sim tươi cho vào nồi, đổ ngập nước, đun còn nửa bát (khoảng 100ml) để uống, liên tục trong 2-3 ngày. Còn để chữa chảy máu do ngoại thương, có thể lấy Lá sim tươi rửa sạch, giã nát, đắp vào chỗ đau.
Sau đây là một số bài thuốc cụ thể:
 Thiếu máu ở thai phụ, suy nhược sau ốm: Quả sim khô 15-20g sắc với nước, chia nhiều lần uống trong ngày.
 Băng huyết, thổ huyết: Quả sim khô sao đen như than, nghiền thành bột mịn, cất vào lọ, nút kín để dùng dần. Mỗi lần uống 12-15g, chiêu thuốc bằng nước sôi. Đối với vết thương bên ngoài, có thể dùng bột thuốc bôi vào. Phụ nữ bị băng huyết cũng có thể lấy Rễ sim 50g, Rể mua thấp (Melastoma dodecandrum Lour) 50g, Lá ngải cứu 20g sao vàng, cho vào ấm, đổ ngập nước, thêm nửa bát giấm (đối với những người bị loét dạ dày thì không dùng), đun cạn còn 2 bát, chia thành 2 phần uống trong ngày (khi thuốc còn ấm)
 Tiêu chảy, kiết lỵ: Nụ sim 20-30g sắc với nước, chia nhiều lần uống trong ngày. Nếu bị kiết lỵ với triệu chứng bụng quặn đau, đại tiện nhiều lần, lượng phân ít có lẫn máu mủ, mót rặn, nên dùng quả sim tươi 30-50g (khô 15-25g) rửa sạch, sắc với nước uống, khi uống hòa thêm chút mật ong.
 Đại tiện xuất huyết: Quả sim khô 20g, nước 400ml, sắc còn 300ml, chia 2 phần uống trong ngày, dùng liên tục 3-5 ngày.
 Thoát giang (lòi dom, trực tràng lòi ra hậu môn): Quả sim tươi 30-60g (khô 15-30g) nấu với dạ dày lợn, dùng làm thức ăn trong bữa cơm.
 Bỏng: Quả sim sao tồn tính, nghiền thành bột mịn, trộn với dầu thực vậy bôi vào vết thương. Trong trường hợp bỏng lửa, có thể lấy rễ sim khô đốt thành than, nghiền thành bột mịn, trộn với mỡ bò bôi vào vết thương.
 Viêm dạ dày, viêm ruột cấp: Lá sim tươi 50-100g (lá khô 15-20g) sắc nước uống.
 Viêm gan vi rút: Rễ sim khô 30g, sắc kỹ với nước, chia 2 lần uống sau bữa ăn. Mỗi liệu trình 20 ngày. Nếu vàng da nặng, thêm Điền cơ hoàng, Nhân trần, Bạch hoa xà thiệt thảo mỗi thứ 15g, Kê cốt thảo 30g, cùng sắc uống.
 Đau đầu, hen (dạng hư hàn): Dùng rẽ sim khô 60g, sắc nước uống.
 Phong thấp, bị thương lâu ngày nên khớp xương đau nhức: rễ sim khô 60g sắc lấy nước, hòa với rượu uống.
 Tiểu đường: Dùng rễ sim khô 30-60g cùng với thịt lợn nạc nấu lên ăn trong bữa cơm hằng ngày (Tuyền Châu bản thảo).
 Trĩ lở loét: Dùng rễ sim khô 40-50g, Hoa hòe 15-20g, nấu kỹ với lòng lợn; bỏ bã thuốc, ăn lòng lợn và uống nước canh. Dùng liên tục trong nhiều ngày.
Các tin khác

Cần phải có tất cả thông tin.

Người gởi
Người nhận