Email Bản in

Ngựa trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam

Ngựa là một trong số những loài vật được miêu tả với nhiều hình dạng khác nhau trên tranh tượng dân gian Việt Nam Ngựa có mặt trên các phù điêu gỗ, đá ở các đền miếu và trên tranh làng Hồ và Hà thành tư xa xưa, đặc biệt là trong các đồ thủ công mỹ nghệ. Tranh tượng về ngựa rất phong phú, đa dạng không chỉ giới hanh ở nơi thờ tự, trong cung đình mà còn phổ biến ra ngoài dân gian.

   Trước hết, ngựa tạo hình dân gian đã tham gia vào cuộc sống xã hội của con người. Ngực hồng đi trong “Đám cưới chuột” hay còn gọi là “Ông nghè vinh quy”. Ngựa vui chân nhịp bước trong tiếng kèn dân tộc, dáng vẻ oai hùng, nghiêm trạng.

          Bức tranh Quang Trung, ngựa được miêu tả trang nghiêm và oai hùng hơn với bốn vó phi nước đại rộn ràng. Yên cương rực rỡ sắc màu của ngựa được thể thiện khá chân phương, rõ nét, gần như thực. Ngựa có đôi mắt mở trừng đăm đăm nhìn phía trước với cái mõm khẽ há và đôi cánh mũi phập phồng cùng bốn chân khoẻ chắc đủ làm cho ngựa có hình dáng một chiến mã béo tốt.
          Loại ngựa chiến ấy được thấy trong tranh “Phù Đổng Thiên Vương đại phá giặc Ân” Ngựa không đi nước đại mà rướn cổ mạnh, sải dài bay trong gió, Toàn thân ngựa được miêu tả khá gon, đỏ rực như khúc than hồng vừa tạo đựpc khí thế hùng dũng của người và ngựa.
          Chúng ta còn tìm gặp hình dáng ngựa hành quân, loại ngựa chiến tương tự trong nhiều tranh dân gian khác của tranh Đông Hồ, tranh Hà Nội. Ở nhiều tranh thờ, ngựa hồng được thay bằng ngựa trắng hay đôi khi bằng ngựa ô. Sự thay đổi màu lông hẳn có những lý do tín ngưỡng nhất định.
          Nựa tạo hình dân gian còn lắm kiểu cách được chạm trổ trên hương án chùa Bút Tháp vào thế kỷ 17 hay trên văn in lại chùa Tây Mỗ (Hà Tây) thuộc thế kỷ 19, những chú ngựa vượt qua hoa lá chạm đá trên văn bia tại chùa Linh Quang (Hải Phòng) hoặc khỉ cưỡi ngựa (chùa Tây Mỗ), ngựa đá nhau (chùa Bút Tháp - Bắc Ninh).v. v”
          Rõ ràng, tranh tượng dân gian của ta, con ngựa được mô tả đủ hình dáng, động tác và chức năng của xã hội.
          Hình tượng ngựa xuất hiện sớm nhất của mỹ thuật Việt Nam là ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh). Nó được làm khoảng giữa thế kỷ XI, dưới hình thức chạm tròn nguyên khối đá với đôi ngựa nằm ngang cùng với voi, sư tử, trâu và tê giác. Hai con ngựa này béo tốt tạo nhiều khối căng tròn biểu hiển sự no đủ, sung túc. Ngựa còn thấy xuất hiện trên đài sen, có nghĩa nó được ở đất Phật, được Phật giác ngộ rồi tự nguyện trở kinh đi khắp nơi để giáo hoá chúng sinh. Ngựa thờ bằng gốm men thời Lý được tìm thấy ở chùa Phật Tích.
          Sau thời nhà Lý, đạo Phập có phần suy vi, thì hình tượng con ngựa cũng vì thế mà hiếm thấy trong nghệ thuật được thời. Đến thế kỷ XVI, khi giai đoạn mở đầu của nghệ thuật dân dã phát triển thì con ngựa mới xuất hiện mang tư cách là con vật linh thiêng có cánh trân lưng (đình Tây Đằng, Hà Tây). Đến thời nhà Mạc, con ngựa lại vượt qua ý nghĩa tầm thường để thành con Long Mã, có hình đầu rồng, thân ngựa, vẩy cá chép, chân hươu, đuôi bò 9chùa Trà Phương - Hải Phòng). Long Mã có nguồn gốc gắn với nguồn nước, biểu hiện cho ý chí tung hoành ngang dọc của thánh nhân. Sang thế ký XVII, hình tượng con ngựa càng phổ biến, có khi nó được tạo bằng đá, lớn hơn bình thường (mộ quận Đăng ở Thanh Hoá năm 1629) hay nhóm tượng giám mã (ở đình Hương, Bắc Ninh) đầu thws kỷ XVIII.
          Ngựa thờ ở mồ mả là để làm tăng thêm sự giàu sang, phú quý của chỉ nhân. Hình ngựa chạm khắc ở đình miếu đôi khi là hình dáng của loại ngựa để các tướng lĩnh cưỡi khi đấu võ (đình Nội, Bắc Ninh). Phổ biến nhất là loại ngựa thờ như “Vân mã” (ngựa bay trên may), “Mã hầu” (khỉ ngồi trên đuôi ngựa), hay các loại ngựa bạch, ngựa hồng để biểu hiện cho quan hệ âm dương, nóng lạnh, lửa nước”.
          Vào cuối thế kỷ XVII, con ngựa đứng dưới lọng đã xuất hiện ở cung đình, sau đó phổ biến ra ngoài dân gian. Cảnh ngựa đá đứng chầy với voi đá ở các lang miếu thời nhà Nguyễn cũng rất phổ biến, mặc dù ngựa đá đã đi vào thơ văn thời nhà Trần với câu thơ bất hủ của vua Trần Nhân Tông.
          Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
          Sơn hà thiên cổ diện Kim âu
          Xã tắc hai phen bon ngựa đá
          Non sông nghìn thuở vững âu vàng)
          Hình ảnh con ngựa đã in sâu vào tâm trí của nghệ sĩ, chứng tỏ họ rất yêu thích, quý mến loài ngựa, muốn biến hình ảnh con ngựa thành một hình tượng nghệ thuật lý tưởng có tầm vóc ngang hàng với những linh vật khác được tôn thờ ở nước ta.
 
Theo Khoa học và công nghệ, TTXVN
Các tin khác

Cần phải có tất cả thông tin.

Người gởi
Người nhận